Hỡi ôi!
Thi cử An Nam ; lòng dân trời tỏ.
Mười hai năm đèn sách, chưa chắc còn danh nổi tợ phao; một cuộc vượt vũ môn, tuy là rớt tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa:
Cung cúc chấp hành; toan lo sở, Bộ.
Chưa quen nói thật, đâu biết làm ngay; chỉ biết khai man, biến không thành có.
Việc dối, việc gian, việc bơm, việc nịnh, tay vốn quen làm; tập liêm, tập chính, tập kiệm, tập cần, mắt chưa từng ngó.
Ôn tập tủ phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa; mùi lộ đề vấy vá nửa trăm năm, ghét thi thật như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy sở về thăm trường lớp, muốn tới xun xoe; ngày xem trát Bộ nhắn nhe, muốn ra bợ đỡ.
Một núi sách ôn đồ sộ, há để trên thua lỗ được a; hai tốt Bộ phán chói lòa, hay là để treo dê, bán chó.
Muốn giật cờ, bằng, phần thưởng, phen này xin ra sức báo công; chẳng thèm ôn tập luyện thi, chuyến này dốc ra tay quan hệ.
Khá thương thay:
Vốn chẳng phải học hàm, học vị, theo dòng mua tước bán danh; chẳng qua là dân ấp, dân lân, giỏi chạy chọt nên ông này bà nọ.
Thanh tra đoàn to toán nhỏ, cưỡi ngựa xem hoa; giám sát tốp dưới tổ trên , nghe hơi nồi chõ.
Ngoài cật có một manh áo vải, phải lo che cho hết phao thi; trong tay cầm một ngọn bút bi, cần giấu kín mobile, ipod
Phao thi nhét trong nịt ngực, cố bôi cho hết sáu câu; công thức chép kín hai đùi, toan nuốt trọn mấy bài thi khó.
Chẳng quản thanh tra, giám sát, đạp rào lướt tới, có họ cũng như không; nào sợ bảo vệ, công an, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ câu phao, người người tin nhắn, làm cho giám thị thất kinh; bọn hè trước, lũ cửa sau, trối kệ hội đồng nhăn nhó.
Ôi !
Những lăm đổi mới trường thi; đâu biết ngọn tre đơm đó.
Một giấc ủy viên rằng chữ hạnh, nào hay kiếm mướt mồ hôi; trăm năm phó thủ tướng ấy chữ quy, vận hạn xem chừng cũng khó.
Đoái trông tốt nghiệp thí sinh mấy vạn sầu giăng; nhìn chốn học đường, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Chẳng phải học thật, dạy hay bốn cõi, mà chống bệnh thành tích cho cam tâm; vốn không tu nhân, tích đức lâu năm, mà hiệu lực bốn không cho đáng số.
Nhưng nghĩ rằng:
Đã thi thì phải đỗ, tài bồi trường, sở bằng khen; phết phẩy cho vài điểm thêm, mắc mớ chi ông cha nó.
Vì ai khiến thầy trò khó nhọc, tốn kém quà cáp phông bao; vì ai xui gửi gắm cho nhau, mớm bài làm hộ.
Phải biết chi cho ban phúc khảo, thay bài thi thêm điểm dổm, mới gọi là khôn; Chớ nghe theo đám thật thà, không luồn dưới, chẳng đút trên, thế thì trượt cho chỏng vó.
Thà tốn mà được bằng tốt nghiệp, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ hỏng thi, năm sau lại thi rất khổ.
Ôi thôi thôi !
Dột từ nóc, quanh năm hô khẩu hiệu, tấm lòng son vứt xó chẳng ai dùng; chuyện thi đua nói thế để mà chơi , chỉ tội nghiệp đám trung thần tưởng bở.
Đau đớn bấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, tiền ôn thi ba sào lúa chưa xong; não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng, bầy thi hỏng vật vờ trước ngõ.
Ôi !
Hết một mùa thi, vạn người kêu khổ.
Trên dưới vẫn quen lề thói cũ, hèn chi bốn phía mây đen; ông cha ta nói lắm mỏi mồm, ai cứu đặng một phường con đỏ.
Học mà dối, nhà rồi còn khổ, bà con buồn chúng bạn cười chê; thi mà gian, nước sẽ u mê, nền giáo dục muôn đời khốn khó.
Học phải thật, thi càng phải thật, mới giúp cho đất nước chấn hưng, muôn kiếp nguyện giữ gìn xã tắc; sống vì dân, thác cũng vì dân, lời dụ dạy đã rành rành, chớ bán đứng sông này núi nọ.
Nước mắt trường thi lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thi đua; bằng tốt nghiệp mực chưa khô, cám bởi một câu thành tích.
Hỡi ôi thương thay !
Có linh xin hưởng.
( Ảnh chôm từ blog Tú Trinh)